Theo quy định tại Nghị định 46/2014/NĐ-CP , đối với các trường hợp sử dụng đất thuê từ ngày 1/7/2014, nếu chưa có quyết định cho thuê đất hoặc hợp đồng thuê đất nhưng đang sử dụng vào mục đích thuộc đối tượng phải thuê đất thì việc tính tiền thuê đất được xác định trên các căn cứ sau: Diện tích tính tiền thuê là diện tích thực tế đang sử dụng, mục đích sử dụng đất thuê theo mục đích thực tế đang sử dụng, đơn giá thuê để tính tiền thuê đất phải nộp hàng năm không được ổn định.
Trường hợp người sử dụng đất chưa được cơ quan thẩm quyền cho thuê đất, đang sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh, nếu đã được cơ quan thuế Thông báo tạm nộp tiền thuê đất theo chính sách và giá đất tại thời điểm ban hành Thông báo tạm nộp trước ngày 1/7/2014 thì việc thu tiền thuê đất được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Nghị định 46/2014/NĐ-CP .
Về xử phạt hành chính, đối với giai đoạn sử dụng đất trước ngày 5/12/2020 (ngày Nghị định 126/2020/NĐ-CP có hiệu lực) mà chưa có quyết định cho thuê đất hoặc hợp đồng thuê đất thì không thuộc đối tượng áp dụng quy định tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP
nên không có cơ sở xử phạt hành chính.
Đối với giai đoạn sử dụng đất từ ngày 5/12/2020, người thuê thuộc đối tượng thuê đất nhưng chưa có quyết định cho thuê đất hoặc hợp đồng thuê đất và chưa có kê khai với cơ quan thuế, chưa có tên trên sổ bộ thuê đất, chưa có thông báo nộp tiền thuê đất của cơ quan thuế thì phải nộp hồ sơ kê khai tiền thuê đất theo quy định tại khoản 5 Điều 10 Nghị định 126/2020/NĐ-CP . Nếu người thuê đất có hành vi vi phạm về khai, nộp hồ sơ kê khai tiền thuê đất thì bị xử phạt hành chính về thuế theo quy định tại Nghị định 125/2020/NĐ-CP
.
Thông tin | |
Hiệu lực | Không xác định |
Hết hiệu lực | Không xác định |
Đăng tải | Bản tin LuatVietnam số 5774 |
Tệp đính kèm |
Văn bản xử phạt | |
Không xác định |
Dòng thời gian | |
Không có dữ liệu |